ĐIỀU GÌ XẢY RA KHI TẾ BÀO BETA BẮT ĐẦU RỐI LOẠN CHỨC NĂNG?
ĐƯỜNG HUYẾT GIA TĂNG nhanh chóng khi các tế bào beta đảm nhiệm việc tiết insulin ở tuyến tụy không thể theo kịp sự kháng insulin đang tăng dần. Khi cơ chế bù đắp này thất bại, chỉ mất từ một đến hai năm để hình thành tiểu đường hoàn chỉnh. Qua thời gian, sự tiết insulin đạt đỉnh và sau đó bắt đầu giảm. Sự suy giảm dần trong việc tiết insulin thường được gọi là rối loạn chức năng tế bào beta, hay đôi lúc còn được gọi là suy kiệt tuyến tụy. Nhưng thứ gì gây ra hiện tượng này?
Nhiều nhà nghiên cứu đã đề xuất rằng sự tăng đường huyết hủy hoại các tế bào beta. Tuy nhiên, có một sai lầm rõ ràng và không thể khắc phục đối với giả thuyết này. Khi kháng insulin phát triển, đường huyết vẫn được kiểm soát tương đối. Glucose không gia tăng đáng kể cho tới sau khi các tế bào beta bị suy yếu. Rối loạn chức năng tế bào beta làm mức đường huyết tăng cao chứ không phải ngược lại.
Giả thuyết phổ biến nhất là các tế bào beta bị bào mòn do tiết insulin quá sức trong khoảng thời gian quá dài. Giống như một khối động cơ ọp ẹp đã được tăng tốc quá nhiều lần, khối lượng công việc thường xuyên quá tải đã gây ra tổn thương không thể chữa lành. Tuy nhiên, có ba vấn đề chủ yếu tồn tại trong mô hình của tổn thương mạn tính tiến triển nặng dần của tuyến tụy.
Đầu tiên, chức năng của tế bào beta đã được chứng minh là có thể hồi phục hoàn toàn. Bác sĩ Roy Taylor thuộc Đại học Newcastle ở Anh quốc đã thành công phục hồi chức năng tuyến tụy bằng một chế độ ăn siêu ít ca-lo. Sự thật rằng việc giảm cân có thể đẩy lùi tiểu đường type 2 cũng ám chỉ rằng chức năng tế bào beta có thể hồi phục. Đơn giản là các tế bào beta không bị suy kiệt.
Thứ hai, với việc hoạt động quá mức cần thiết, cơ thể thường phản ứng bằng cách gia tăng, chứ không hề giảm chức năng. Nếu bạn luyện tập, cơ bắp sẽ mạnh mẽ hơn, thay vì kiệt sức. Khi hoạt động quá mức, các tuyến thường trở nên lớn hơn, thay vì nhỏ đi. Nếu tư duy và học hỏi nhiều, bạn sẽ có thêm kiến thức; thay vì làm suy kiệt bộ não. Điều tương tự cũng xảy ra với các tế bào tiết insulin. Chúng sẽ trở nên lớn hơn (phì đại) chứ không phải bị nhỏ đi (tiêu biến).
Cuối cùng, sự suy kiệt tế bào beta ám chỉ rằng tổn thương xảy ra chỉ có thể là do sử dụng quá mức trong một thời gian dài. Phải mất nhiều thập kỷ hoạt động quá mức thì sẹo và xơ hóa mới xảy ra. Sự xuất hiện của đại dịch tiểu đường type 2 ở trẻ em và trẻ vị thành niên rõ ràng đã chứng minh khái niệm này là sai. Với việc tiểu đường type 2 giờ đây có thể được chẩn đoán ở trẻ em ngay từ khi mới ba tuổi, thật khó để tin rằng bất kỳ bộ phận cơ thể nào của những đứa trẻ này đã bị suy kiệt.
Nguyên nhân gây rối loạn chức năng tế bào beta là gì? Do khuyết tật này thường xuất hiện sau kháng insulin, nguyên lý “dao cạo Ockham” gợi ý rằng sự rối loạn chức năng tế bào beta đáng lẽ phải có cùng cơ chế nền tảng với sự kháng insulin. Cụ thể hơn, vấn đề là các cơ quan bị nhiễm mỡ và các nghiên cứu gần đây đã xác định được nghi phạm hàng đầu. Trong giai đoạn đầu tiên, gan nhiễm mỡ và cơ nhiễm mỡ khiến kháng insulin tăng cao. Ở giai đoạn thứ hai, tụy nhiễm mỡ gây ra rối loạn chức năng tế bào beta. Tuyến tụy không bị suy kiệt; nó chỉ bị tắc nghẽn bởi mỡ.
TẠI SAO TUYẾN TỤY LẠI BỊ NHIỄM MỠ?

GIA TĂNG insulin trong máu gây ra gan nhiễm mỡ và để giảm bớt phần mỡ dự phòng, gan sẽ chuyển lượng mỡ mới tạo tới các bộ phận khác của cơ thể. Một phần mỡ đi tới các tế bào mỡ và một phần khác đi tới cơ xương. Tụy cũng bị mỡ xâm nhập nặng.
Mối quan hệ giữa trọng lượng của tụy và tổng cân nặng cơ thể được ghi nhận lần đầu vào năm 1920. Khi giải phẫu thi thể, người ta thấy rằng tuyến tụy của người béo phì chứa lượng mỡ gần gấp đôi so với những người gầy. Tới những năm 1960, tiến bộ trong việc khảo sát hình ảnh không xâm lấn cho phép chúng ta trực tiếp xác định lượng mỡ ở tụy và thiết lập mối liên kết giữa tụy nhiễm mỡ, béo phì, mức triglyceride cao và kháng insulin. Gần như mọi bệnh nhân có tụy nhiễm mỡ đều mắc gan nhiễm mỡ.
Quan trọng hơn cả, tụy nhiễm mỡ rõ ràng có liên quan đến tiểu đường type 2. Bệnh nhân tiểu đường type 2 có lượng mỡ ở tụy và gan nhiều hơn các bệnh nhân không bị tiểu đường. Trong tụy có càng nhiều mỡ thì lượng insulin tiết ra càng ít. Nói một cách đơn giản, tụy nhiễm mỡ và gan nhiễm mỡ là điểm khác biệt giữa một bệnh nhân tiểu đường type 2 và một người không bị tiểu đường.
Sự khác biệt trở nên rõ ràng hơn trong phẫu thuật giảm béo, đó là cách thức can thiệp để làm giảm kích cỡ bụng hay bắc cầu dạ dày (tôi sẽ nói thêm về việc này ở Chương 13). Phẫu thuật này không trực tiếp loại bỏ mỡ như việc hút mỡ, vốn không có lợi ích gì về mặt trao đổi chất. Các bệnh nhân béo phì không bị tiểu đường có lượng mỡ trong tụy ở mức bình thường và điều này không đổi sau khi phẫu thuật cho dù bệnh nhân có giảm cân.
Bệnh nhân tiểu đường type 2 có quá nhiều mỡ trong tụy nhưng phẫu thuật béo phì sẽ làm giảm lượng mỡ này và phục hồi khả năng tiết insulin về mức bình thường. Kết quả là tiểu đường type 2 được chữa trị thành công trong vòng vài tuần sau khi phẫu thuật, ngay cả khi họ vẫn thừa cân và nặng tới hơn 100 kg. Mỡ thừa trong tụy chỉ được phát hiện ở bệnh nhân tiểu đường type 2. Các tế bào beta ở tụy rõ ràng không suy kiệt mà bị tắc nghẽn bởi mỡ. Loại bỏ chỉ 0,6 g mỡ trong tụy cũng có thể đẩy lùi thành công tiểu đường type 2. Tám tuần sau khi phẫu thuật giảm béo, lượng mỡ trong gan cùng với kháng insulin cũng trở lại bình thường.
Phẫu thuật giảm béo không phải là phương pháp duy nhất đem đến những lợi ích này. Sự giới hạn ca-lo đột ngột và nghiêm ngặt trong Nghiên cứu COUNTERPOINT đã làm giảm lượng mỡ trong tụy và tái lập khả năng tiết insulin của nó trong vòng vài tuần.
Mỡ sai vị trí, sự tích tụ mỡ ở những nơi không phải là tế bào mỡ, đóng vai trò quan trọng khi hình thành kháng insulin. Nó bao gồm gan nhiễm mỡ, cơ nhiễm mỡ và tụy nhiễm mỡ. Ngay cả ở những bệnh nhân bị béo phì nghiêm trọng, kháng insulin sẽ không phát triển nếu không có sự tích tụ mỡ sai chỗ. Sự thật này giải thích được cho việc tại sao khoảng 20% số người bị béo phì lại không bị kháng insulin và có khả năng trao đổi chất ở mức bình thường.36 Ngược lại, những người với cân nặng bình thường có thể mắc tiểu đường type 2 nếu mỡ xuất hiện ở các cơ quan thay vì bên trong các tế bào mỡ. Mỡ trong các tế bào mỡ thì không thành vấn đề nhưng mỡ bên trong các cơ quan lại không ổn chút nào.
Lần đầu được ghi nhận vào những năm 1950,37 béo phì nội tạng, còn được gọi là béo phì vùng trung tâm hay béo phì vùng bụng, là một căn bệnh làm tổn hại khả năng trao đổi chất. Không có insulin, mỡ ở sai vị trí và kháng insulin không thể phát triển. Quả thực, lượng mỡ tích tụ bị tan biến khi mức insulin thấp được duy trì. Insulin là thứ cần thiết để chuyển ca lo dư thừa thành mỡ và duy trì nó dưới dạng mỡ.
Bệnh tiểu đường type 2 phát triển không chỉ do cơ thể bị tăng mỡ mà còn do sự tích tụ mỡ bên trong các cơ quan. Vấn đề không chỉ là mỡ mà còn là mỡ ở sai vị trí. Gan và cơ nhiễm mỡ thúc đẩy sự kháng insulin thường thấy ở tiểu đường type 2 giai đoạn đầu. Tụy nhiễm mỡ thúc đẩy rối loạn chức năng tế bào beta thường thấy ở giai đoạn thứ hai. Khuyết tật kép của tiểu đường type 2 bao gồm:
• Kháng insulin gây ra bởi gan và cơ nhiễm mỡ;
• Rối loạn chức năng tế bào beta gây ra bởi tụy nhiễm mỡ.
Điều quan trọng là hai khuyết tật cơ bản này không phải do hai cơ chế hoàn toàn khác nhau gây ra. Chúng là biểu hiện của cùng một vấn đề cơ bản: sự tích tụ mỡ bên trong nội tạng do sự gia tăng insulin trong máu thúc đẩy, thứ vốn do lượng glucose và fructose dư thừa từ thực phẩm gây ra. Về bản chất, quá nhiều đường gây ra tiểu đường type 2. Đây là câu trả lời đơn giản, trực quan và chính xác nhất.
Nguồn: Fung, Jason. Mật mã tiểu đường: Cách chữa bệnh tiểu đường type 2 mà không cần thuốc.
Dịch bởi Nhã Nam, Nhà xuất bản Thế giới, 2018