TIỂU ĐƯỜNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN CƠ THỂ NHƯ THẾ NÀO?
KHÔNG NHƯ hầu hết các căn bệnh chúng ta đã biết, tiểu đường có tiềm năng ác tính độc nhất trong việc tàn phá toàn bộ cơ thể con người. Trên thực tế, không có hệ cơ quan nào không bị ảnh hưởng bởi tiểu đường. Các biến chứng này thường được phân loại theo vi mạch và mạch máu lớn.
Một số cơ quan nhất định, chẳng hạn như mắt, thận và dây thần kinh, chủ yếu được cấp máu qua vi mạch. Tổn thương vi mạch gây ra các vấn đề về thị giác, bệnh thận mạn tính và tổn thương thần kinh, vốn thường gặp ở các bệnh nhân tiểu đường lâu năm.
Các cơ quan khác, chẳng hạn như tim, não bộ và chân, được cấp máu qua mạch máu lớn. Tổn thương mạch máu lớn gây ra hiện tượng co hẹp, gọi là mảng xơ vữa động mạch. Các mảng bám này vỡ ra sẽ gây viêm và làm xuất hiện cục máu đông, dẫn đến đau tim, đột quỵ và hoại tử ở chân.
Cách tiểu đường gây tổn thương các mạch máu sẽ được thảo luận trong cuốn sách này. Nhiều người coi đó chỉ là hậu quả của mức đường huyết cao nhưng chúng ta sẽ thấy rằng sự thật hoàn toàn khác. Có rất nhiều biến chứng khác ngoài bệnh về mạch máu, bao gồm bệnh về da, gan nhiễm mỡ, nhiễm trùng, hội chứng buồng trứng đa nang, Alzheimer và ung thư. Tuy nhiên, hãy bắt đầu với những vấn đề liên quan đến vi mạch.
TIỂU ĐƯỜNG GÂY RA NHỮNG BIẾN CHỨNG VI MẠCH NÀO?
Bệnh võng mạc

TIỂU ĐƯỜNG là nguyên nhân gây mù lòa hàng đầu ở Mỹ. Bệnh về mắt – đặc biệt là tổn thương võng mạc (bệnh võng mạc) – là một trong những biến chứng thường gặp nhất của tiểu đường. Võng mạc là lớp thần kinh nhạy sáng nằm ở đằng sau mắt, có tác dụng truyền “hình ảnh” tới não bộ. Bệnh tiểu đường làm suy yếu các vi mạch nối với võng mạc, khiến máu và các chất dịch khác rò rỉ ra ngoài. Khi kiểm tra mắt định kỳ, điều này có thể được thấy rõ bằng kính soi đáy mắt tiêu chuẩn.
Để phản ứng lại tổn thương này, các mạch máu mới ở võng mạc được hình thành nhưng chúng rất mong manh dễ vỡ. Kết quả là bệnh nhân bị chảy máu nhiều hơn, cuối cùng hình thành mô sẹo. Trong trường hợp nghiêm trọng, mô sẹo này có thể đẩy võng mạc lên, kéo nó lệch khỏi vị trí bình thường, kết quả dẫn đến mù lòa. Phương pháp laser có thể phòng ngừa bệnh võng mạc bằng cách đóng hoặc phá hủy các mạch máu rò rỉ mới.
Khoảng 10.000 ca mù lòa mới mỗi năm ở Mỹ có nguyên nhân là bệnh võng mạc tiểu đường. Bệnh nhân mắc bệnh võng mạc phụ thuộc vào việc họ đã mắc tiểu đường trong bao lâu cũng như việc tình trạng bệnh nghiêm trọng đến đâu. 3 Đối với tiểu đường type 1, bệnh nhân sẽ mắc bệnh võng mạc ở một mức độ nhất định trong vòng 20 năm. Đối với tiểu đường type 2, bệnh võng mạc có thể phát triển trong tối đa 7 năm trước khi tiểu đường được chẩn đoán.
Bệnh thận

CÔNG VIỆC CHÍNH của thận là làm sạch máu. Khi chúng suy yếu, độc tố sẽ tích tụ trong cơ thể, dẫn đến chán ăn, sụt cân cũng như thường xuyên có cảm giác buồn nôn và nôn mửa. Nếu bệnh không được điều trị, hậu quả cuối cùng sẽ là tình trạng hôn mê và tử vong. Ở Mỹ, có tới hơn 100.000 bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh thận mạn tính mỗi năm, gây tổn thất 32 tỷ đô la vào năm 2005. Gánh nặng của bệnh không chỉ rất lớn về mặt tài chính mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến cảm xúc của người bệnh.
Ở Mỹ, bệnh thận do tiểu đường là nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh thận giai đoạn cuối (ESRD), chiếm khoảng 44% tổng số ca mắc mới vào năm 2005. 4 Những bệnh nhân đã mất tới hơn 90% chức năng thận đều cần được chạy thận để loại bỏ độc tố tích tụ trong máu. Quy trình này bao gồm việc loại bỏ máu “nhiễm bẩn” của bệnh nhân, để máu chạy qua máy thẩm tách để lọc sạch tạp chất và đưa máu sạch trở lại cơ thể. Để sống sót, bệnh nhân cần chạy thận bốn tiếng mỗi lần, ba lần mỗi tuần vô thời hạn, trừ khi họ được cấy ghép thận.
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ mắc bệnh thận giai đoạn cuối đã được điều chỉnh

Bệnh thận do tiểu đường thường mất từ 15-25 năm để phát triển nhưng, cũng giống như bệnh võng mạc, đôi khi nó có thể được chẩn đoán trước tiểu đường type 2. Mỗi năm có khoảng 2% bệnh nhân tiểu đường type 2 bị mắc bệnh thận. Mười năm sau khi chẩn đoán, 25% số bệnh nhân sẽ có dấu hiệu của bệnh thận. 6 Một khi đã hình thành, bệnh thận do tiểu đường thường tiến triển, dẫn đến việc thận ngày càng suy kiệt cho tới khi bệnh nhân cần chạy thận hoặc cấy ghép thận.
Bệnh thần kinh

TỔN THƯƠNG THẦN KINH do tiểu đường xảy ra với khoảng 60- 70% các bệnh nhân tiểu đường.7 Lại một lần nữa, thời gian mắc bệnh và độ trầm trọng của tiểu đường càng cao thì nguy cơ xuất hiện biến chứng thần kinh càng lớn.
Có rất nhiều loại tổn thương thần kinh do tiểu đường. Thông thường, bệnh thần kinh do tiểu đường tác động đến các dây thần kinh ngoại biên, đầu tiên là ở bàn chân, rồi tiến triển đến bàn tay và cánh tay. Tổn thương tới các loại dây thần kinh khác nhau sẽ gây ra các triệu chứng khác nhau, bao gồm:
• Ngứa ran;
• Tê bì;
• Bỏng rát;
• Đau đớn.
Bệnh thần kinh do tiểu đường tiến triển đến mức nghiêm trọng gây ra những cơn đau không ngừng, làm cơ thể suy nhược và các triệu chứng thường nặng hơn vào ban đêm. Ngay cả các loại thuốc giảm đau mạnh như thuốc gây mê cũng thường không có hiệu quả. Thay vì đau đớn, đôi khi bệnh nhân có thể có cảm giác tê bì hoàn toàn. Khám lâm sàng kỹ càng sẽ cho thấy sự suy giảm khả năng cảm nhận sự va chạm, rung và nhiệt độ, cùng với sự mất phản xạ ở bộ phận cơ thể bị ảnh hưởng.
Mặc dù có vẻ vô hại nhưng sự mất cảm giác hoàn toàn không phải như vậy. Cơn đau bảo vệ chúng ta khỏi thiệt hại do chấn thương. Khi chúng ta bị vấp ngón chân hay nằm sai tư thế, cơn đau cho chúng ta biết rằng nên mau chóng điều chỉnh cơ thể nhằm phòng tránh những tổn thương nặng nề hơn ở mô. Nếu không thể cảm thấy đau đớn, chúng ta có thể tiếp tục lặp lại chấn thương. Qua nhiều năm, tổn thương tiến triển và đôi lúc có thể gây biến dạng. Một ví dụ điển hình là bàn chân. Tổn thương nghiêm trọng tới dây thần kinh có thể hủy hoại khớp hoàn toàn – tình trạng dị tật bàn chân Charcot – và có thể tiến triển tới mức khiến bệnh nhân không thể đi lại và thậm chí cần cắt bỏ chân.
Một rối loạn thần kinh khác được gọi là chứng teo cơ, gây ảnh hưởng đến các nhóm cơ lớn. Đặc điểm là cơn đau khủng khiếp và suy yếu cơ, đặc biệt ở phần đùi.
Hệ thần kinh thực vật điều khiển các chức năng tự động của cơ thể con người, như hô hấp, tiêu hóa, đổ mồ hôi và nhịp tim. Tổn thương tới các nhóm thần kinh này có thể gây buồn nôn, nôn mửa, táo bón, tiêu chảy, rối loạn bàng quang, rối loạn cương dương và hạ huyết áp tư thế đứng (hạ huyết áp đột ngột, nghiêm trọng khi đứng dậy). Nếu các dây thần kinh nối với tim bị ảnh hưởng, nguy cơ gặp các cơn đau tim thầm lặng và tử vong sẽ gia tăng.
Hiện không có phương pháp điều trị nào chữa trị được tổn thương thần kinh do tiểu đường. Thuốc men có thể có ích với các triệu chứng bệnh nhưng nó không thể thay đổi diễn biến của bệnh. Tóm lại, biến chứng này chỉ có thể phòng ngừa.
TIỂU ĐƯỜNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN MẠCH MÁU LỚN NHƯ THẾ NÀO?
Xơ vữa động mạch (động mạch bị cứng lại)
XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH là một bệnh về động mạch, trong đó các mảng bám cấu thành từ chất béo xuất hiện ở thành trong mạch máu, khiến mạch máu bị thu hẹp và xơ cứng. Căn bệnh này dẫn đến đau tim, đột quỵ và bệnh mạch máu ngoại biên, gọi chung là bệnh tim mạch. Tiểu đường làm tăng đáng kể nguy cơ xơ vữa động mạch.
Mặc dù khá phổ biến nhưng bệnh xơ vữa động mạch đã bị hình dung sai khi người ta cho rằng cholesterol dần làm nghẽn động mạch, giống như cặn bùn tích tụ trong ống thoát nước. Trên thực tế, đây là hậu quả của tổn thương động mạch nhưng nguyên nhân đích xác vẫn chưa được biết đến. Có rất nhiều nhân tố góp phần, bao gồm nhưng không giới hạn ở độ tuổi, di truyền, tình trạng hút thuốc, tiểu đường, căng thẳng, huyết áp cao và thiếu vận động thể chất. Bất kỳ lỗ thủng nào ở thành động mạch cũng có thể gây ra một đợt viêm. Cholesterol (một chất dạng sáp, giống như chất béo hiện diện ở mọi tế bào của cơ thể) xâm nhập vào khu vực bị tổn thương và làm hẹp mạch máu. Cơ trơn nâng đỡ mô của mạch máu sẽ sinh sôi nhanh chóng; và collagen, chất đạm với vai trò cấu trúc hiện diện ở nhiều chỗ trong cơ thể, cũng tích tụ theo phản ứng với tổn thương này. Một lần nữa, mạch máu lại bị thu hẹp thêm. Thay vì chỉ một lần duy nhất và có thể chữa khỏi, phản ứng này xảy ra liên tục theo phản xạ đối với các chấn thương kinh niên ở thành mạch máu.
Kết quả cuối cùng là sự hình thành mảng bám, còn gọi là xơ vữa, một cụm gồm cholesterol, các tế bào cơ trơn và các tế bào viêm ở bên trong thành mạch máu. Tổ chức này dần giới hạn lượng máu chảy vào các cơ quan bị ảnh hưởng. Nếu mảng xơ vữa này bị vỡ, một cục máu đông được hình thành. Sự tắc nghẽn động mạch đột ngột do cục máu đông sẽ ngăn cản lưu thông bình thường của máu, khiến các tế bào ở hạ lưu bị thiếu ôxy, làm chết tế bào và bệnh tim mạch xảy ra.
Bệnh tim
ĐAU TIM, hay nhồi máu cơ tim, là biến chứng được biết đến nhiều nhất và đáng sợ nhất của tiểu đường; gây ra bởi chứng xơ vữa ở động mạch vành cấp máu cho tim. Sự tắc nghẽn đột ngột này khiến tim bị thiếu ôxy, dẫn đến hoại tử một phần cơ tim.
Nghiên cứu Framingham trong những năm 1970 đã chỉ ra mối liên kết mạnh mẽ giữa bệnh tim và tiểu đường. Tiểu đường làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch lên gấp hai đến bốn lần và biến chứng này xảy ra sớm hơn nhiều so với các bệnh nhân không bị tiểu đường. Có đến 68% các bệnh nhân tiểu đường tuổi từ 65 trở lên sẽ tử vong do bệnh tim và 16% khác tử vong do đột quỵ. Do đó, giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh mạch máu lớn là điều quan trọng nhất. Tỷ lệ tử vong và tàn tật do bệnh tim mạch lớn hơn gấp nhiều lần so với hậu quả từ bệnh về vi mạch.
Trong ba thập kỷ qua, đã có những tiến bộ đáng kể trong việc điều trị bệnh tim, nhưng những lợi ích cho bệnh nhân tiểu đường lại tụt hậu phía sau rất nhiều. Trong khi tỷ lệ tử vong nói chung đối với bệnh nhân không bị tiểu đường đã giảm đi 36,4% thì tỷ lệ tử vong của bệnh nhân tiểu đường chỉ giảm 13,1%.
Đột quỵ
ĐỘT QUỴ do xơ vữa các động mạch lớn cấp máu cho não bộ gây ra. Sự gián đoạn đột ngột của dòng máu khiến não bộ thiếu ôxy, khiến một phần não có thể bị chết đi. Các triệu chứng thay đổi tùy theo phần não bộ bị ảnh hưởng nhưng chúng ta không thể đánh giá thấp tác động khủng khiếp của đột quỵ. Ở Mỹ, đây là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ ba và là nhân tố lớn nhất góp phần gây tàn tật.
Tiểu đường là một yếu tố nguy cơ độc lập đáng kể với đột quỵ, tức là chỉ riêng tiểu đường đã làm tăng nguy cơ đột quỵ của một người thêm 150-400%. Khoảng một phần tư số ca đột quỵ mới xảy ra ở các bệnh nhân tiểu đường. Mỗi năm chung sống với bệnh tiểu đường sẽ làm tăng nguy cơ đột quỵ thêm 3%, và khiến tiên lượng bệnh xấu đi nhiều.
Bệnh mạch máu ngoại biên

BỆNH MẠCH MÁU NGOẠI BIÊN (PVD) do sự xơ vữa động mạch lớn cấp máu cho chân gây ra. Sự gián đoạn dòng máu khiến chân thiếu đi các huyết sắc tố mang ôxy. Triệu chứng phổ biến nhất của PVD là đau đớn hay chuột rút xuất hiện khi đi bộ và thuyên giảm khi được nghỉ ngơi. Khi các mạch máu bị co hẹp và sự lưu thông máu trở nên tồi tệ, các cơn đau có thể xuất hiện khi nghỉ ngơi và đặc biệt là vào ban đêm. PVD làm giảm đáng kể khả năng vận động, có thể dẫn đến tàn tật dài hạn.
Làn da bị thiếu máu cũng dễ tổn thương và lâu lành hơn. Ở các bệnh nhân tiểu đường, những vết cắt nhỏ hay chấn thương nhẹ ở bàn chân có thể trở thành những vết loét không thể lành. Trong trường hợp nghiêm trọng, những khu vực da đã bị hủy hoại và để lộ ra lớp mô ở dưới có thể tiến triển thành hoại tử. Tới lúc này, nguồn cấp máu đã giảm đáng kể hoặc hoàn toàn mất đi, các mô bị chết và việc cắt cụt các chi bị ảnh hưởng – giải pháp điều trị cuối cùng – thường sẽ là điều cần thiết để điều trị chứng nhiễm trùng mạn tính và giảm nhẹ cơn đau.
Cùng với việc hút thuốc lá, tiểu đường là yếu tố nguy cơ lớn nhất của PVD. Khoảng 27% bệnh nhân tiểu đường mắc PVD sẽ tiến triển nặng hơn trong 5 năm và 4% trong số họ cần cắt cụt chi. Các bệnh nhân bị hoại tử và những người cần cắt cụt chi có thể sẽ không đi lại được nữa, họ rơi vào vòng xoáy tàn tật. Các chi mất đi chức năng dẫn đến suy giảm vận động thể chất, qua đó khiến các cơ dần suy yếu, tiếp tục làm vận động thể chất bị giảm bớt. Chu trình này cứ thế lặp lại.
TIỂU ĐƯỜNG GÂY RA NHỮNG BIẾN CHỨNG NÀO KHÁC NỮA?
Bệnh Alzheimer

ALZHEIMER là bệnh thoái hóa thần kinh mạn tính, tiến triển, gây mất trí nhớ, biến đổi tính cách và những vấn đề về nhận thức. Đây là dạng sa sút trí tuệ phổ biến nhất và là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ sáu ở Mỹ. Alzheimer có thể là biểu hiện của việc mất khả năng sử dụng glucose như thông thường, đây có thể là một dạng kháng insulin chọn lọc trong não bộ. Mối liên kết giữa bệnh Alzheimer và tiểu đường trở nên mạnh mẽ tới mức nhiều nhà nghiên cứu đã đề xuất rằng Alzheimer có thể được gọi là tiểu đường type 3. Tuy nhiên, những lập luận trên nằm ngoài khuôn khổ của cuốn sách này.
Ung thư

TIỂU ĐƯỜNG TYPE 2 làm tăng nguy cơ mắc các loại ung thư thường gặp, bao gồm ung thư vú, ung thư dạ dày, ung thư đại trực tràng, ung thư thận và ung thư nội mạc tử cung. Điều này có thể liên quan đến một vài loại thuốc được dùng để điều trị tiểu đường và sẽ được thảo luận thêm ở chương . Tỷ lệ sống sót của bệnh nhân ung thư vốn đã mắc tiểu đường sẽ thấp hơn nhiều so với các bệnh nhân không mắc.
Bệnh gan nhiễm mỡ
BỆNH GAN nhiễm mỡ không do rượu bia (Non-alcoholic fatty liver – NAFLD) được định nghĩa là sự lưu trữ và tích lũy mỡ thừa dưới dạng các triglyceride vượt quá 5% tổng trọng lượng của gan. Căn bệnh này có thể được phát hiện bằng cách sử dụng siêu âm để kiểm tra vùng bụng. Khi lượng mỡ thừa gây tổn thương mô gan, có thể được phát hiện qua xét nghiệm máu thông thường, nó được gọi là viêm gan nhiễm mỡ không do rượu bia (non-alcoholic steatohepatitis – NASH). Hiện tại, ước tính rằng NAFLD ảnh hưởng đến khoảng 30% dân số Mỹ còn NASH ảnh hưởng đến 5%; cả hai đều là những nguyên nhân quan trọng gây xơ gan (mô sẹo không thể phục hồi ở gan).
NAFLD hầu như không tồn tại ở các ca khởi phát tiểu đường type 1 gần đây. Trái lại, tỷ lệ mắc bệnh này ở tiểu đường type 2 là hơn 75%. Vai trò trung tâm của gan nhiễm mỡ sẽ được giải thích đầy đủ hơn ở chương 7.
Nhiễm trùng

BỆNH NHÂN TIỂU ĐƯỜNG có nguy cơ cao hơn trong việc mắc tất cả các loại bệnh nhiễm trùng được gây ra khi các sinh vật bên ngoài xâm nhập và sinh sôi bên trong cơ thể. Họ không chỉ dễ nhiễm nhiều loại vi khuẩn và nấm hơn những người không bị tiểu đường mà tác động của việc nhiễm cũng trầm trọng hơn. Ví dụ, bệnh nhân tiểu đường có nguy cơ nhiễm trùng thận cao hơn bốn đến năm lần. Mọi loại bệnh nhiễm nấm, bao gồm bệnh nấm Candida, nấm âm đạo, nấm móng tay và nấm da chân, đều dễ gặp hơn ở bệnh nhân tiểu đường.
Trong số các loại nhiễm trùng nghiêm trọng nhất đối với bệnh nhân tiểu đường, tồn tại cả các dạng nhiễm trùng liên quan đến bàn chân. Mặc dù đã kiểm soát tốt mức đường huyết, 15% tổng số bệnh nhân tiểu đường sẽ có những vết thương ở bàn chân không thể lành trong suốt cuộc đời. Tình trạng nhiễm trùng ở những vết thương này thường liên quan đến nhiều loại vi sinh vật, khiến việc điều trị bằng kháng sinh phổ rộng là cần thiết. Tuy nhiên, sự suy giảm tuần hoàn máu liên quan đến PVD (xem ở trên) góp phần làm vết thương khó lành. Do đó, bệnh nhân tiểu đường có nguy cơ phải cắt cụt chi dưới tăng gấp 15 lần, chiếm hơn 50% các ca cắt cụt chi được thực hiện ở Mỹ, không tính đến các vụ tai nạn. Người ta ước tính rằng mỗi ca nhiễm trùng gây loét chân do tiểu đường có chi phí điều trị lên tới hơn 25.000 đô la.
Có nhiều nhân tố góp phần khiến tỷ lệ nhiễm trùng cao hơn. Mức đường huyết cao có thể làm suy yếu hệ miễn dịch. Tương tự, việc tuần hoàn máu kém làm giảm khả năng các tế bào bạch cầu chống nhiễm trùng tiếp cận mọi bộ phận của cơ thể.
Các bệnh về da và móng tay
NHIỀU BỆNH về da và móng tay có liên quan đến tiểu đường. Nhìn chung, vấn đề nằm ở mặt thẩm mỹ nhiều hơn là về mặt y tế; tuy nhiên, chúng thường là biểu hiện của căn bệnh tiểu đường tiềm ẩn, nghiêm trọng và cần được chăm sóc về mặt y tế. Bệnh gai đen là tình trạng da dày lên, sờ như nhung và có màu xám-đen, thường xuất hiện ở vùng da quanh cổ và các nếp gấp trên cơ thể, gây ra bởi mức insulin cao. Bệnh da do tiểu đường, còn gọi là đốm cẳng chân, thường xuất hiện ở chân dưới dạng các vảy mịn tối màu. Mụn thịt là những vùng da mềm lồi ra thường xuất hiện ở mí mắt, cổ và nách. Hơn 25% các bệnh nhân có mụn thịt mắc tiểu đường..
Các bệnh nhân tiểu đường cũng thường có vấn đề ở móng tay, nhất là nhiễm nấm. Móng tay có thể có màu nâu ngả vàng, dày lên và tách khỏi giường móng (bệnh bong tróc móng).
Rối loạn cương dương CÁC NGHIÊN CỨU quần thể trên cộng đồng về nam giới tuổi từ 39-70 đã phát hiện ra rằng tỷ lệ bất lực nằm trong khoảng 10- 50%. Tiểu đường là một yếu tố nguy cơ chủ chốt, làm tăng khả năng rối loạn cương dương gấp ba lần và ảnh hưởng đến các bệnh nhân ở độ tuổi thấp hơn bình thường. Tuần hoàn máu kém ở các bệnh nhân tiểu đường dường như là nguyên nhân. Nguy cơ rối loạn cương dương cũng tăng theo độ tuổi và mức độ trầm trọng của sự kháng insulin, khoảng 50-60% đàn ông trên 50 tuổi bị tiểu đường gặp phải vấn đề này.
Hội chứng buồng trứng đa nang

SỰ MẤT CÂN BẰNG hormone có thể khiến cho một số phụ nữ phát triển các u nang (các khối u lành tính) trên buồng trứng. Bệnh này gọi là hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS), có đặc điểm là kinh nguyệt bất thường, có dấu hiệu thừa testosterone và sự hiện diện của các u nang (thường được phát hiện bởi siêu âm). Bệnh nhân PCOS có chung nhiều đặc điểm với bệnh nhân tiểu đường type 2, bao gồm béo phì, huyết áp cao, cholesterol cao và kháng insulin. PCOS được gây ra bởi sự gia tăng kháng insulin và nó làm tăng nguy cơ mắc tiểu đường type 2 lên gấp ba đến năm lần ở phụ nữ trẻ.
TRONG KHI hầu hết các loại bệnh chỉ giới hạn ở một hệ cơ quan duy nhất, tiểu đường lại tác động đến mọi cơ quan theo nhiều cách. Do đó, nó là nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa, suy thận, bệnh tim, đột quỵ, cụt chi, sa sút trí tuệ, vô sinh, tổn thương thần kinh.
Nhưng câu hỏi khó là tại sao các vấn đề này đang trở nên tệ hơn chứ không tốt lên, dù cho nhiều thế kỷ đã trôi qua kể từ khi căn bệnh này lần đầu được mô tả. Khi hiểu biết về tiểu đường tăng lên, chúng ta kỳ vọng rằng các biến chứng sẽ giảm xuống. Nhưng không. Nếu tình hình trở nên tệ hơn, vậy thì lời giải thích hợp lý duy nhất là sự hiểu biết và việc điều trị tiểu đường type 2 về cơ bản là có sai sót.
Chúng ta quá tập trung vào việc hạ đường huyết. Tuy nhiên, đường huyết cao chỉ là triệu chứng. Nguyên nhân gốc rễ của gia tăng đường huyết ở tiểu đường type 2 là sự kháng insulin cao. Khi chúng ta chưa giải quyết được nguyên nhân gốc là sự kháng insulin đó, đại dịch tiểu đường type 2 cùng tất cả các biến chứng liên quan vẫn sẽ tiếp tục trở nên trầm trọng hơn. Chúng ta cần phải bắt đầu lại từ đầu. Thứ gì gây ra tiểu đường type 2? Thứ gì tạo nên kháng insulin và làm thế nào có thể đảo ngược nó? Rõ ràng, béo phì đóng một vai trò lớn trong việc này. Chúng ta phải bắt đầu với nguyên nhân của béo phì.
SIMON
Đến với chương trình Kiểm soát tích cực chế độ ăn (IDM), Simon khi đó 66 tuổi, nặng 121 kg với vòng eo 135 cm và có chỉ số BMI là 43. Ông đã được chẩn đoán mắc tiểu đường type 2 cách đó tám năm và đang dùng thuốc sitagliptin, metformin và glicizide để kiểm soát đường huyết. Ngoài ra, ông có tiền sử cao huyết áp và một phần thận đã bị cắt bỏ do ung thư.
Chúng tôi khuyên ông thực hiện một chế độ ăn ít carbohydrate, có chất béo lành mạnh và gợi ý rằng ông nên bắt đầu nhịn ăn trong 24 tiếng, ba lần mỗi tuần. Trong vòng sáu tháng, ông đã giảm thiểu số lượng thuốc sử dụng xuống chỉ còn một loại duy nhất là canagliflozin, thứ ông tiếp tục dùng trong một khoảng thời gian để hỗ trợ việc giảm cân. Sau đó một năm, chúng tôi ngưng chỉ định loại thuốc này vì cân nặng và mức đường huyết của Simon đã được cải thiện đáng kể. Kể từ đó đến nay ông không cần tới bất kỳ loại thuốc nào nữa.
Trong lần kiểm tra sức khỏe gần nhất, mức huyết sắc tố A1C của Simon là 5,9%, được coi như không mắc tiểu đường. Ông duy trì được mức giảm cân 20 kg trong hai năm tính đến thời điểm hiện tại. Giờ đây, ông cảm thấy rất vui với sự thay đổi về sức khỏe tổng thể của mình. Cỡ quần ông mặc đã giảm từ 46 xuống còn 40 và bệnh tiểu đường type 2, thứ mà ông từng tin là sẽ phải chung sống với nó cả đời, đã hoàn toàn bị đẩy lùi. Simon tiếp tục tuân thủ chế độ ăn ít carbohydrate và nhịn ăn trong 24 tiếng một hay hai lần mỗi tuần.
BRIDGET
Khi chúng tôi lần đầu gặp Bridget, bà đã 62 tuổi, có tiền sử mắc tiểu đường trong 10 năm, bị bệnh thận mạn tính và cao huyết áp. Bà bị kháng insulin nghiêm trọng, cần tổng cộng 210 đơn vị insulin mỗi ngày để kiểm soát mức đường huyết. Bà nặng 147 kg với vòng eo 147 cm và chỉ số BMI là 54,1.
Quyết tâm dứt bỏ insulin, bà đã bắt đầu với một cuộc nhịn ăn kéo dài 7 ngày nhưng sau đó bà vẫn cảm thấy khỏe mạnh nên đã tiếp tục nhịn thêm hai tuần nữa. Sau khi kết thúc 21 ngày nhịn ăn, bà không chỉ bỏ được insulin mà còn gần như không cần dùng một loại thuốc tiểu đường nào nữa. Để duy trì sự giảm cân, bà đã chuyển từ nhịn ăn liên tục sang nhịn ăn trong 24 đến 36 tiếng hai ngày một lần và tiếp tục uống dapagliflozin để kiểm soát cân nặng. Trong khoảng thời gian này, mức A1C của bà là 6,8%, tốt hơn so với khi bà sử dụng insulin.
Trước khi bắt đầu chương trình IDM, Bridget là một người có rất ít năng lượng và gần như không thể đi tới văn phòng của tôi trên đôi chân của mình. Một khi bắt đầu nhịn ăn, mức năng lượng của bà đã được cải thiện đáng kể và bà đã có thể dễ dàng đi lại. Cỡ váy của bà đã giảm từ 30 xuống còn 22. Cho đến nay, Bridget đã ngừng sử dụng insulin được ba năm và duy trì được mức giảm cân là 28 kg trong suốt quãng thời gian đó. Huyết áp của bà đã trở lại bình thường và bà đã ngừng uống thuốc.
Nguồn: Fung, Jason. Mật mã tiểu đường: Cách chữa bệnh tiểu đường type 2 mà không cần thuốc.
Dịch bởi Nhã Nam, Nhà xuất bản Thế giới, 2018